Dạng sệt, đặc có màu trắng trong suốt hoặc có màu vàng nhạt, có độ nhớt cao, tạo bọt ra khá bền, độ đặc của bọt khá cao, bọt rất dày, hoạt tính bề mặt thấp nên ít gây hại cho da.
Dạng lỏng, màu trắng hoặc trắng vàng, tan trong nước, hàm lượng: 80% min, có tính ổn định và độ an toàn cao, có tác dụng thẩm thấu tốt, tăng cường tính năng diệt khuẩn và tiêu độc, mang lại hiệu quả nhanh chóng.
Là chất rắn màu tím, tan rất trong nước tạo thành dung dịch tím, khi bay hơi để lại các tinh thể lăng trụ màu đen tím sáng lấp lánh. Là chất oxy hóa mạnh, sẽ bốc cháy hoặc phát nổ nếu kết hợp với chất hữu cơ khác.
Dạng tinh thể vô định hình có màu nâu đen, mùi đặc trưng và có độ nhớt cao, tan trong nước sinh ra nhiệt, tan được trong methanol, ethanol và các dung môi khác.
Dạng tinh thể màu trắng, tan được trong nước tuy nhiên sự tan là không đáng kể khi ở nhiệt độ thường. Chúng ta cũng có thể bắt gặp hợp chất này không ở trạng thái khan mà ngậm 12 phân tử nước trong công thức phân tử và bản thân hợp chất này có khả năng hút ẩm.
Dạng vảy, màu trắng ngà, ưa ẩm, dễ hoàn tan trong nước, ancol, glycerin, có tính kiềm ăn mòn mạnh, KOH ở dung dịch nước sẽ ăn mòn thủy tinh, khi KOH nóng chảy sẽ ăn mòn sứ trong môi trường có không khí, phát nhiệt ở nhiệt độ 20 độ C
Dạng bột màu trắng mịn khi nung đến nhiệt độ 300oC nó chuyển sang màu vàng ( chuyển sang màu trăng khi bị làm trở lạnh ), không mùi, không tan trong nước lạnh.
Có nhiều dạng như: dạng vẩy đục không màu, dạng hạt. Hóa chất dễ tan trong nước, trong cồn và trong glycerin nhưng không hoà tan trong ether và các dung môi không phân cực khác.
Một chất lỏng, màu vàng nhạt, có mùi xốc rất độc, ngoài không khí ẩm bốc thành sa mù do tạo ra những hạt nhỏ axít clohydric. Tan rất nhiều trong nước và phát nhiệt.
Bột màu trắng, mùi nồng, để ngoài không khí dễ chảy nước, là một chất gặm mòn nên không được dùng trong ăn uống, đặc biệt trong khuôn khổ gia đình hoặc thủ công.